Phật giáo Hòa Hảo là một trong những tôn giáo nội sinh, có tầm ảnh hưởng lớn trong khu vực miền Tây , và trở thành là tôn giáo có số tín đồ đông thứ 4 tại Việt nam.
Phật giáo Hòa Hảo là 1 tông phái chính thống ra đời tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang) vào năm 1939.
Người sáng lập PGHH là ông Huỳnh Phú Sổ (1920-1947) sinh tại làng Hoà Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu đốc.
Là con thứ tư trong gia đình nhưng là con trai trưởng của cụ ông Huỳnh Công Bộ (Hương Cả Bộ) và cụ bà Lê Thị Nhậm. Sau khi tốt nghiệp tiểu học ông phải bỏ học vì mắc nhiều bệnh. Quá trình lên núi chữa bệnh cũng là thời kỳ ông bắt đầu học đạo, học làm thuốc. Khi chưa tròn 18 tuổi, ông tuyên bố mình là bậc "Sinh nhi tri", biết được quá khứ nhìn thấu tương lai, xuống hạ giới có nhiệm vụ truyền bá cho dân chúng tư tưởng Bửu Sơn Kỳ Hương để Chấn hưng Phật giáo, cứu độ chúng sinh khỏi sông mê, biển khổ và "đưa nhơn loại đi vào vòng hạnh phúc".
Mục đích của Phật giáo Hòa Hảo lấy Pháp Môn là “học Phật – tu Nhân” giúp nhân dân Học Phật tu Nhân hành thiện, chủ trương tu hành tại gia, giải trừ mê tín dị đoạn.
Vì vậy, Phật Giáo Hoà hảo được coi là một tôn giáo nội sinh mang đậm tính dân tộc, ảnh hưởng tới Nam Bộ và phù hợp với mọi tầng lớp bình dân.
Ông bắt đầu công việc chữa bệnh bằng các bài thuốc nam do ông kê toa từ lá cây, nước lá, giấy vàng đồng thời truyền dạy đạo lý bởi những bài sám giảng ( sấm giảng) do ông soạn.
Những bài sám giảng này với nội dung cốt lõi là giáo lý của Đức Phật Thích Ca, đồng thời gần gũi với mọi người dân ở Nam Bộ lúc bấy giờ bởi nhờ áp dụng lối văn thơ dễ hiểu, bình dị để truyền.
Vừa chữa bệnh vừa truyền giáo. Nhờ vậy mà Phật giáo Hòa Hảo phát triển rộng rãi khắp miền Tây Nam Bộ.
Giáo lý Phật giáo Hòa Hảo được thể hiện rõ ràng trong các bài sấm kệ của ngài Huỳnh Phú Sổ soạn thảo dựa trên sự tiếp thu của tư tưởng Bữu Sơn Kỳ Hương của Phật Thầy Tây An, kết hợp với quan điểm đạo đức Nho giáo, Lão giáo và xu hướng của phong trào chấn hưng Phật giáo.
Sấm giảng giáo lý Phật giáo Hòa Hảo được coi là phần nói về giáo lý Phật giáo Hòa Hảo mang tính sấm truyền của đức Huỳnh giáo chủ– người sáng lập Phật giáo Hòa hảo.
Đối với “Tu Nhân” khuyên các tín đồ phải “ tứ ân hiếu nghĩa” gồm: Ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân đồng bào nhân loại, ân tam bảo gồm Phật, Pháp, Tăng.
Phật giáo Hòa Hảo khuyên tín đồ phải vừa học Phật vừa tu nhân để tạo công đức. Nhờ công đức để thành hiền nhân.
Kinh Phật giáo Hòa Hảo sám giảng đã để lại nhiều tinh hoa cho các tín đồ tu tập. Một trong những lời khuyên răn mà các tín đồ thường phải lưu tâm khắc cốt là Phật giáo hòa hảo 8 điều ngăn cấm.
Phật giáo Hòa Hảo không bắt mọi người để tóc dài, nhưng có lẽ một mặt noi theo Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, mặt khác để chứng tỏ mình không bị ảnh hưởng bởi văn minh phương Tây nên đa số nam tín đồ Phật giáo Hòa hảo thường để tóc dài và búi tó. Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo thường mặc áo bà ba, áo dài màu đen hoặc màu dà (màu vàng).
Trước đây Phật giáo Hòa Hảo có quy định về nghi thức nhập đạo và ra đạo khá chặt chẽ, có phần gần giống như tổ chức chính trị.
Người muốn nhập đạo cần có một số điều kiện như: Phải tự nguyện, có tuổi từ 18 trở lên, viết đơn xin gia nhập đạo, phải có 02 bổn đạo cũ giới thiệu và bảo lãnh, phải báo cho gia đình biết.
Người vào đạo phải nguyện trước bàn thờ tổ tiên và tuyên thệ trước Tam bảo giữ gìn một đời một đạo cho đến ngày chung thân. Sau khi nhập đạo, mỗi người được nhận thẻ tín đồ, được tham gia sinh hoạt đạo và đóng nguyệt liễm.
Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo là những cư sĩ tại gia nên việc thờ phượng và hành đạo rất đơn giản, chủ yếu được tiến hành tại gia đình.
Phật giáo Hòa Hảo chỉ thờ Phật, thờ các vị anh hùng dân tộc. Phật giáo Hòa hảo không thờ thần thánh không rõ căn tích.
Phật giáo Hòa Hảo thờ Phật nhưng không bằng tượng cốt, tranh ảnh mà thờ tấm vải Trần Dà (là tấm vải màu nâu) thay cho tấm vải Trần Điều (là tấm vải màu đỏ) của Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương với cùng một quan niệm Phật tức tâm, tâm tức Phật; ông Huỳnh Phú Sổ đã giải thích việc đổi thờ Trần Điều thành Trần Dà như sau: Từ trước, chúng ta thờ Trần Điều là di tích của Phật thầy Tây An để lại.
Ở mỗi gia đình của Phật giáo Hòa Hảo có 03 bàn thờ: Bàn thờ Phật cao nhất chỉ treo tấm Trần Dà; bàn thờ tổ tiên đặt dưới bàn thờ Phật; bàn thờ thông thiên thờ ngoài trời, ở trước cửa nhà.
Sau này tín đồ Phật giáo Hòa Hảo còn thờ ảnh của ông Huỳnh Phú Sổ, thường được đặt dưới tấm Trần Dà.
Lễ phẩm cúng Phật hay cúng trời đất ở bàn thông thiên chỉ có hương, hoa và nước lạnh.
Nước lạnh thể hiện sự trong sạch, hoa thể hiện sự tinh khiết, hương thơm xua đuổi tà khí.9
Phật giáo Hòa Hảo tuyệt đối không dùng vàng mã khi cúng giỗ, vì cho rằng đó chỉ là những thứ giả tạo, không cần thiết.
Phật giáo Hòa Hảo không dùng kinh kệ của Phật giáo mà chỉ đọc sấm giảng của ông Huỳnh Phú Sổ và miện Lục tự Di Đà (sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật) để tĩnh tâm.
Do cách hành đạo niệm Lục tự Di Đà nên Phật giáo Hòa Hảo tự nhận mình là Pháp môn Tịnh độ Phật học tu nhân.
Trải qua bao nhiêu thăng trầm, Phật Giáo Hòa Hảo vẫn thu hút đông đảo các tín đồ tham gia, tu hành, sống tốt đời đẹp.
sưu tầm tư liệu tham khảo.